TCCTDựa trên các đặc điểm của ngành công nghiệp ô tô – xe máy và tình hình hiện tại của Việt Nam, Cục Công nghiệp, Bộ Công Thương đề xuất một số biện pháp chính sách và kế hoạch hành động được khuyến nghị để thúc đẩy ngành công nghiệp ô tô – xe máy và đảm bảo cho ngành này có một tương lai bền vững ở Việt Nam.
Dây chuyền lắp ráp ô tô Vinfast tại Hải Phòng
Việt Nam có một số lợi thế trong ngành công nghiệp ô tô – xe máy, với thị trường nội địa lớn đang ngày càng mở rộng. Ngoài ra, vị trí địa lý của Việt Nam xét về khía cạnh hậu cần toàn cầu cùng với lực lượng lao động khiến Việt Nam trở thành ứng cử viên hấp dẫn như là một đại bản doanh sản xuất ô tô – xe máy trong tương lai. Việt Nam, không giống như Malaysia, Thái Lan hay Indonesia, là nước duy nhất mà ô tô tay lái bên trái thực sự được chạy trên đường, đây là yếu tố không nhỏ trong bố trí và chi phí sản xuất. Hơn nữa, những hành động gần đây cũng thể hiện quyết tâm của chính phủ trong việc phát triển ngành công nghiệp ô tô – xe máy.
Tuy có những lợi thế chung này, một số ít rào cản lớn vẫn cần được khắc phục. Ngân sách chi tiêu sản xuất của Nước Ta vẫn không mang tính cạnh tranh đối đầu. Nhiều xe CBU nhập khẩu từ những nước ASEAN ( thậm chí còn từ những khu vực khác ) rẻ hơn chi phí sản xuất tại Nước Ta. giá thành sản xuất của Việt Nam cao có vẻ như có mối liên hệ ngặt nghèo với trong thực tiễn rằng ‘ những ngành công nghiệp phụ trợ ‘ chưa tăng trưởng vừa đủ và việc shopping đấu thầu phức tạp hơn so với ở những nước khác .
Dựa trên những đặc thù của ngành công nghiệp ô tô – xe máy và tình hình hiện tại của Nước Ta, Cục Công nghiệp, Bộ Công Thương đề xuất kiến nghị 1 số ít giải pháp chủ trương và kế hoạch hành vi được khuyến nghị để thôi thúc ngành công nghiệp ô tô – xe máy và bảo vệ cho ngành này có một tương lai bền vững và kiên cố ở Nước Ta .
Để gắn những nhận định và đánh giá trên về tình hình hiện tại của ngành công nghiệp ô tô – xe máy của Nước Ta với việc thực thi chủ trương, những hành vi sau cần được thực thi trước khi tiến hành những giải pháp chủ trương. Việc kiến thiết xây dựng tầm nhìn, không riêng gì là dự báo dựa trên tài liệu thống kê, là điều quan trọng so với mỗi ngành vì nó đưa ra những lý lẽ tương thích và đồng điệu cho tầm nhìn dài hạn trong tương lai và đưa ra khuynh hướng kế hoạch. Việc kiến thiết xây dựng một tầm nhìn xa như vậy cũng cần được vận dụng cho ngành công nghiệp ô tô – xe máy, và nên được dựa trên những tiền đề sau :
Cập nhật về dự báo cho tổng nhu yếu ô tô dự kiến theo năm và theo những phân khúc
Tỷ trọng xe điện và các phương tiện thân thiện với môi trường khác trong tổng cầu
Phân tích chuỗi giá trị toàn thế giới và cán cân thương mại so với từng thành phần chính cũng như cho toàn ngành ô tô – xe máy
Hiện trạng những ngành công nghiệp tương hỗ và tính khả thi của ngành công nghiệp ô tô – xe máy trong nước với ngân sách chi tiết cụ thể
Xây dựng những ngữ cảnh có / không có chủ trương tương hỗ như tương hỗ về thuế quan .
Theo Cục Công nghiệp, các kế hoạch phát triển ngành ô tô – xe máy cần đi kèm với các kế hoạch cho các ngành công nghiệp hỗ trợ, kế hoạch cung cấp cho các cơ sở hạ tầng khác, nguồn nhân lực và kế hoạch R&D cho các công nghệ lõi. Khi tìm tòi, khám phá các công nghệ lõi cần chú ý tới sự khác biệt về công nghệ cũng như tiến bộ công nghệ (năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp ô tô – xe máy Hàn Quốc sẽ không thể thành hiện thực nếu không có các ngành công nghiệp hỗ trợ).
Việt Nam phải xây dựng lộ trình R&D bao gồm cả kế hoạch thương mại hóa công nghệ. Để nâng cao kết quả rõ rệt của chính sách, các mốc quan trọng cần được xác định. Cho đến gần đây, không có nhiều nhà cung ứng địa phương đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng-chi phí-giao hàng cần thiết để tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Giấy phép sao chép và/hoặc các thỏa thuận chuyển giao công nghệ hoặc giấy phép từ các nhà cung ứng phụ tùng chính hãng và nhà cung ứng địa phương phải được áp dụng. Việt Nam vẫn thiếu nhiều chính sách cơ bản liên quan đến vấn đề này, bao gồm vị trí của ngành công nghiệp xe máy, triển vọng về phương tiện phát thải thấp trong cả ngành công nghiệp xe máy và ô tô, cơ sở hạ tầng giao thông như đường xá và các vấn đề kiểm soát khí thải theo xu hướng toàn cầu. Bằng việc cân nhắc những tác động không thể thiếu của các yếu tố này, các biện pháp chính sách có tính hệ thống và khả thi hơn có thể được đưa ra cho ngành công nghiệp ô tô – xe máy của Việt Nam.
Về mạng lưới hệ thống sản xuất tổng thể và toàn diện, Cục Công nghiệp yêu cầu cần xem xét vận dụng sản xuất tích hợp thay vì bắt chước sản xuất mô-đun của Trung Quốc để thiết lập những công nghệ tiên tiến và công nghiệp bền vững và kiên cố của quốc gia trong dài hạn. Sản xuất tích hợp yên cầu những bộ phận phụ tùng phải được phong cách thiết kế đặc trưng cho từng loại sản phẩm, những mẫu sản phẩm này liên tục được kiểm soát và điều chỉnh để có hiệu suất cao. Sản xuất mô-đun dễ thực thi hơn ở những nước đang tăng trưởng nhưng có những điểm yếu kém như cung vượt cầu, Ngân sách chi tiêu thấp, doanh thu thấp và thiếu động lực để nâng cấp cải tiến công nghệ tiên tiến .
Một số yếu tố khác cần được xem xét, gồm có thực thi doanh nghiệp nhỏ và vừa, kiến thiết xây dựng khung thương mại kinh doanh hóa công nghệ tiên tiến và hiệu quả R&D, quy trình tiến độ nhìn nhận và kinh tế tài chính hóa cho công nghệ tiên tiến, tăng cường vốn nhân lực, quản trị vốn dựa trên tri thức ( KBC ), v.v.