Thương mại Việt Nam-EU sau một năm thực thi hiệp định EVFTA

Sau một năm đi vào thực thi trong bối cảnh tác động bất lợi của đại dịch Covid-19, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) đã mang lại kết quả tích cực cho thương mại và đầu tư song phương, đồng thời tiếp tục được kỳ vọng là động lực mạnh mẽ thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam-EU trong thời gian tới.

Kết quả một năm thực thi EVFTA

EVFTA là một trong những FTA thế hệ mới có vai trò quan trọng vào sự phát triển kinh tế, thương mại của Việt Nam. Là 1 FTA có tiêu chuẩn cao, toàn diện, mức độ cam kết sâu, rộng, nhưng vẫn đảm bảo lợi ích cân bằng giữa hai bên, Hiệp định EVFTA được đánh giá góp phần thúc đẩy sự phát triển của Việt Nam cả về kinh tế, pháp luật và thể chế.

 Thương mại Việt Nam-EU sau một năm thực thi hiệp định EVFTA 1

Ảnh minh họa ( Nguồn : Internet )

Kết quả sau khi EVFTA đi vào thực thi, trao đổi thương mại song phương giữa hai bên đã có những tăng trưởng tích cực. Theo đó, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU trong 6 tháng đầu năm 2021 đạt 27,67 tỷ USD, tăng 18,4% so với cùng kỳ năm 2020 khi Hiệp định chưa có hiệu lực, trong đó xuất khẩu đạt 19,4 tỷ USD, tăng 18,3% và nhập khẩu từ EU vào Việt Nam đạt 8,2 tỷ USD, tăng hơn 19,1% so với cùng kỳ năm 2020. Con số này được dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng khi Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam – EU (EVIPA) có hiệu lực.

Hiện các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang EU là điện thoại các loại và linh kiện, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, giày dép, dệt may, rau quả, thuỷ sản, gạo, cà phê… Ở chiều ngược lại, các mặt hàng Việt Nam nhập khẩu chủ yếu từ EU là linh kiện, phụ tùng ô tô, ô tô nguyên chiếc các loại, hàng điện gia dụng và linh kiện, chất thơm, mỹ phẩm và chế phẩm vệ sinh. Nếu nhìn từ ngành hàng, EVFTA đã tạo cú hích rất lớn cho xuất khẩu của Việt Nam, giúp đa dạng hóa thị trường và mặt hàng xuất khẩu. Đặc biệt, những mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam như: Dệt may, da giày, nông thủy sản… đã tận dụng ngay được ưu đãi thuế quan của Hiệp định EVFTA để đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường EU. Tính riêng trong lĩnh vực nông nghiệp, EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ tư của nông sản Việt, cộng thêm việc miễn giảm thuế nhập khẩu theo EVFTA khi xóa bỏ ngay lập tức 100% thuế đối với trái cây tươi, trái cây chế biến, nước trái cây thì chỉ sau 5 tháng khi EVFTA có hiệu lực, nhiều mặt hàng nông, lâm nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đã có mức tăng trưởng đáng kể so với cùng kỳ năm 2019. Cụ thể như: Sản phẩm từ cao su đạt 61 triệu USD, tăng 56,91%; gạo đạt 5,2 triệu USD, tăng 3,73%; sản phẩm mây, tre, cói và thảm đạt 70,5 triệu USD, tăng 33,75%; rau quả đạt 63,8 triệu USD, tăng 12,5%. Quả vải của Việt Nam sau khi có EVFTA xuất khẩu tăng đáng kể và mang lại lợi thế cạnh tranh về giá cho nông sản Việt. Đặc biệt, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, đơn hàng lớn vải thiều tới Pháp theo Hiệp định EVFTA đã xóa bỏ những nghi ngờ về năng lực cung cấp của Việt Nam, khẳng định thương hiệu cũng như chất lượng hàng Việt nói chung trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, các ngành hàng thế mạnh khác như: Giày dép, dệt may… cũng vẫn duy trì được tăng trưởng và tận dụng tốt hiệp định EVFTA.

Đặc biệt, sau một năm thực thi hiệp định EVFTA, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng khá tốt các ưu đãi thuế quan từ hiệp định, qua đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh các sản phẩm, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU. Theo thống kê của Cục Xuất nhập khẩu, kể từ khi EVFTA có hiệu lực đến ngày 4/6/2021, các cơ quan, tổ chức được ủy quyển cấp C/O mẫu EUR.1 đã cấp 180.551 bộ C/O mẫu EUR.1, với kim ngạch hơn 6,6 tỷ USD đi 27 nước EU. Ngoài ra, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa sang EU còn thực hiện tự chứng nhận xuất xứ cho 4.845 lô hàng với trị giá hơn 14,91 triệu USD được hưởng ưu đãi thuế quan theo EVFTA. Các mặt hàng được cấp C/O mẫu EUR.1 chủ yếu là giày dép, thủy sản, hàng dệt may, nông sản, sản phẩm từ ngũ cốc, hàng điện tử…

Không chỉ đạt được giá trị thương mại xuất nhập khẩu hai chiều, hoạt động thu hút đầu tư của Việt Nam – EU cũng đã đạt được những kết quả khả quan. Thông qua hiệp định EVFTA với những cam kết về quản trị minh bạch, tạo môi trường thương mại đầu tư thông thoáng, thuận lợi cho doanh nghiệp và các nhà đầu tư của hai bên, Việt Nam đã tiếp nhận được nguồn đầu tư có chất lượng và được học hỏi, hấp thụ khoa học và công nghệ tiên tiến từ EU, tạo ra những giá trị và lợi ích cho doanh nghiệp và nhà đầu tư của cả hai bên. Tính đến tháng 6/2021, EU có 2.221 dự án (tăng 142 dự án so với cùng kỳ năm 2020) từ 26/27 quốc gia thuộc EU còn hiệu lực tại Việt Nam với vốn đầu tư đăng ký đạt 22,216 tỷ USD (tăng 449 triệu USD so với cùng kỳ năm 2020), chiếm 5,58% tổng vốn đầu tư đăng ký của các nước và vùng lãnh thổ vào Việt Nam và chiếm 6,57% số dự án. Đồng thời qua EVFTA, nhà đầu tư EU sẽ có cơ hội tiếp cận thị trường các nước đã ký FTA với Việt Nam với những đối xử ưu đãi hơn. Có thể thấy, chỉ sau 1 năm đi vào thực thị hiệp định EVFTA, môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam đã từng bước cải thiện theo hướng thuận lợi, tạo điều kiện cho doanh nghiệp và tạo đà cho việc thực thi các FTA đạt hiệu quả cao nhất.

Cùng với lợi ích kinh tế, hiệp định EVFTA còn thúc đẩy cải cách thể chế. Đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã có 39 bộ chỉ dẫn địa lý được công nhận bảo hộ tại EU mà không phải qua thủ tục đăng ký, mang lại cơ hội lớn cho doanh nghiệp và nông dân Việt Nam tiếp cận thị trường. Riêng ngành dệt may, các doanh nghiệp đã tập trung đầu tư mới cho sản xuất sợi – dệt vải chiếm tỷ lệ nội địa hóa cao. Nhiều vùng sản xuất nguyên liệu đã được mở ra với quy mô lớn vượt trội; doanh nghiệp cũng dần chuyển hướng nhập khẩu nguyên liệu sang các thị trường có FTA với EU, đáp ứng được yêu cầu quy tắc xuất xứ cộng gộp mà EVFTA đưa ra như Hàn Quốc hay Nhật Bản. Ngoài ra, Việt Nam cũng đã tích cực, chủ động và nỗ lực thực hiện đầy đủ các cam kết của Hiệp định, tạo điều kiện thuận lợi để cộng đồng doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung có thể tận dụng hiệu quả Hiệp định EVFTA.

Trong công tác hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để đảm bảo phù hợp với các quy định của Hiệp định, Chính phủ và các Bộ, ngành có liên quan đã sửa đổi, ban hành mới 08 văn bản quy phạm pháp luật. Ngoài ra, các Bộ, ngành liên quan cũng liên tục rà soát hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật để đảm bảo tính tương thích với các cam kết của Hiệp định, cũng như đưa ra những điều chỉnh kịp thời nhằm tạo thuận lợi cho quá trình thực thi Hiệp định. Đối với công tác cải thiện, đơn giản hóa thủ tục đầu tư, kinh doanh, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 45/2020/NĐ-CP về thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử và Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020-2025, tập trung cắt giảm, đơn giản hóa ít nhất 20% số quy định và 20% chi phí tuân thủ liên quan đến hoạt động kinh doanh cho người dân, doanh nghiệp. Riêng Bộ Công Thương, trong năm 2019-2020 đã cắt giảm thêm 205 điều kiện kinh doanh thuộc lĩnh vực quản lý Nhà nước của Bộ Công Thương trong tổng số 1.216 điều kiện thuộc lĩnh vực quản lý Nhà nước của Bộ Công Thương (trước đó Bộ Công Thương cũng đã cắt giảm 675 điều kiện kinh doanh).

Tập trung thúc đẩy EVFTA trong thời gian tới

EU là thị trường có dung lượng lớn với sự thống nhất trong đa dạng và còn nhiều dư địa cho tăng trưởng, đồng thời cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hoá giữa Việt Nam và EU mang tính bổ trợ thay vì đối đầu cạnh tranh. Các nước EU có nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng nông-lâm-thủy sản ngoài khối ở mức hơn 150 tỷ USD/ năm, trong khi kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này của Việt Nam sang EU mới ở mức khoảng 5 tỷ USD. Thêm vào đó, những ưu đãi từ EVFTA với thuế suất bằng 0% cùng những điều kiện thương mại hài hòa, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU sẽ tăng hơn nữa. Theo nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hiệp định EVFTA sẽ giúp kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng thêm 42,7% vào năm 2025 và 44,37% vào năm 2030 so với không có Hiệp định. Đồng thời, kim ngạch nhập khẩu từ EU cũng tăng nhưng với tốc độ thấp hơn xuất khẩu, cụ thể 33,06% vào năm 2025 và 36,7% vào năm 2030. Về mặt vĩ mô, EVFTA góp phần làm GDP của Việt Nam tăng thêm ở mức bình quân 2,18-3,25% (năm 2019-2023); 4,57-5,30% (năm 2024-2028) và 7,07-7,72% (năm 2029-2033).

Để tập trung thúc đẩy hợp tác thương mại song phương thông qua hiệp định EVFTA, trong thời gian, tới Bộ Công Thương tiếp tục rà soát và xây dựng lộ trình phương án cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh, thủ tục hành chính, kiểm tra chuyên ngành cho giai đoạn 2021-2025; trong đó, bám sát vào các nguyên tắc lấy doanh nghiệp và người dân làm trung tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi, giảm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp, người dân trong việc tuân thủ các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh.

Đồng thời, Bộ cũng đang nghiên cứu và xây dựng bộ chỉ số đánh giá tình hình thực thi các FTA nói chung và EVFTA nói riêng ở các cấp (FTA Index). Dự kiến khi đưa vào vận hành, FTA Index sẽ là công cụ hiệu quả để đẩy mạnh việc thực thi và tận dụng các FTA nói chung, EVFTA nói riêng.

Hệ thống Thương vụ tại nước ngoài tiếp tục nắm bắt thông tin thị trường và các vấn đề phát sinh ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam như: Sự thay đổi chính sách của nước nhập khẩu, các rào cản kỹ thuật, kịp thời thông tin để các bộ, ngành, hiệp hội và doanh nghiệp có phản ứng kịp thời.

Đối với các doanh nghiệp cần nêu cao ý thức chủ động về mọi mặt, trong đó chủ động tìm hiểu các cam kết của Hiệp định, chủ động chuẩn bị năng lực, nguồn hàng, nâng cao sức cạnh tranh, chủ động hợp tác, liên kết để tạo chuỗi cung ứng, thúc đẩy sản xuất, từ đó hoàn thiện chuỗi giá trị từ sản xuất, canh tác, chế biến, phân phối./.

Ngân An

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM